XenForo XenForo

Công dụng đặc biệt của ion h+! Yếu tố chính ảnh hưởng đến acid base

Thảo luận trong 'Thể thao, dã ngoại' bắt đầu bởi thanhbui93, 21/7/22.

  1. thanhbui93

    thanhbui93 Expired VIP

    Nồng độ H+ được quyết định bằng sự hoạt động của phần lớn các loại enzyme trong cơ thể. Vì thế những thay đổi trong nồng độ H+ thể hiện hoạt động chức năng của tế bào và cơ quan trong cơ thể.
    Sự dịch chuyển của ion hydro (H+): sự cân bởi cũng tương tự như một số ion khác trong cơ thể ví dụ như: phải có sự cân bởi giữa lượng ion H+ được tạo ra và ion H+ thải loại từ cơ thể để bảo đảm cân bằng kiềm toan. Giống như các ion khác, thận là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa việc loại trừ ion H+ ra khỏi có thể. Tuy vậy việc điều chỉnh lượng ion H+ trong dịch ngoại bào rất nhiều hơn lượng ion H+ được đào thải bởi thận. Rất nhiều cơ chế đệm acid-base là máu, tế bào, và phổi cũng vô cùng cần thiết trong duy trì nồng độ bình thường xuyên của ion H+ trong cả dịch ngoại bào và nội bào.
    Nồng độ H+ được quyết định bằng sự hoạt động của đa số các loại enzyme trong cơ thể. Vì vậy các đổi thay trong nồng độ H+ thể hiện hoạt động chức năng của tế bào và cơ quan trong cơ thể.
    So với các ion khác, nồng độ ion H+ của những chất dịch trong cơ thể bình thường xuyên luôn luôn được giữ ở mức không cao. Ví dụ: nồng độ ion Na+ trong dịch ngoại bào (142mEq/L) lớn hơn khoảng 3,5triệu lần nồng độ bình thường của ion H+ (chỉ số trung bình là 0.00004mEq/L). Quan trọng không kém, sự đổi thay của nồng độ ion H+ bình thường xuyên trong dịch ngoại bào khoảng 1000000 triệu thì nồng độ ion Na+ bình thường xuyên mới bị chuyển đổi. Như vậy, độ chuẩn xác của ion H+ là rất cao và nó có vai trò quan trọng tới các chức năng của tế bào.
    >>> Chi tiết: https://ocanydrink.wixsite.com/home/post/ion-h-la-gi
    Ion H+ là 1 proton tự do duy nhất có nguồn gốc từ môt nguyên tử hydro. Các phân tử có cất giữ các nguyên tử hydro có thể giải phòng các ion H+ sau những phản ứng sinh hóa ví dụ như acid. Ví dụ acid hydrochloric (HCl) lúc hòa tan trong nước sẽ tạo thành 2 ion là H+ và Cl-. Tương tự như vậy, acid carbonic (H2CO3) ion hóa trong nước để tạo thành H+ và HCO3-.
    1 base là một ion hoặc một phân tử có thể nhận 1 ion H+. Ví dụ như HCO3- là một ion base vì nó có thể kết hợp với ion H+ để tạo thành H2CO3. Tương tự HPO4- là 1 base vì nó có thể nhận 1 H+ để tạo thành H2PO4-. Các protein cơ thể cũng có chức năng như base vì một số acidamin tạo nên protein có điện tích âm có khả năng nhận H+. Các hemoglobin của tế bào máu và các protein trong các tế bào khác của cơ thể là những base quan trọng nhất của cơ thể.
    Thuật ngữ base và kiềm là 2 từ đồng nghĩa. Chất kiềm là 1 phân tử được hình thành bởi sự liên kết của một hay rất nhiều phân tử kiềm như Na, K, Li, v.v… với một ion base ví dụ ion OH-. Những base phản ứng nhanh với những ion H+ để mau chóng lập lại cân bởi nội môi. Tương tự, các chất kiềm phản ứng trong cơ thể loại trừ những ion H+ dư thừa trong dịch cơ thể, chống lại việc chế tạo ra rất nhiều H+, trong đó có tình trạng nhiễm toan.
    Căn cứ xác định acid mạnh-yếu

    1 acid mạnh là một chất nhanh chóng phân ly thành 1 lượng lớn ion H+ trong dung dịch. Ví dụ HCl. Acid yếu ít có khả năng phân ly ra ion H+ vì khả năng hoạt động yếu. Ví dụ H2CO3. 1 Base mạnh là một chất phản ứng nhanh và mạnh với H+ và nhanh chóng loại trừ ion H+ ra khỏi dung dịch. Ví dụ OH- phản ứng với H+ để tạo thành H2O. Một base yếu điển hình là HCO3- vì nó phản ứng với H+ mạnh hơn với OH-. Phần lớn các acid và base trong dịch ngoại bào đều là những acid yếu và base yếu. Hai chất quan trọng nhất là acid carbonic H2CO3 và ion HCO3-.
    Nồng độ ion H+ bình thường, sự đổi thay pH của cơ thể lúc bị nhiễm toan và nhiễm kiềm

    Nồng độ H+ trong máu thường xuyên được kiểm soát rất chặt chẽ và duy trì quanh một mức giá trị trung bình khoảng 0.00004 mEq/L (40 nEq/l). Chuyển đổi bình thường xuyên khoảng 3-5 nEq/L nhưng trong những điều kiện khắc nghiệt thì nồng độ ion H+ có thể nằm trong khoảng 10-160 nEq/L mà không gây ra cái chết.
    bởi nồng độ H+ bình thường là thấp và các số quá nhỏ nên người ta biểu thị pH thành những số theo hàm logarit. Mối liên lạc giữa nồng độ ion H+ và pH của cơ thể được thể hiện qua công thức sau:
    pH = log (1/[H+]) = - log [H+]
    Ví dụ bình thường nồng độ H+ là 40nEq/L ( 0.00000004 Eq/L). Vậy pH bình thường xuyên là:
    pH = - log[0.00000004]
    pH = 7.4
    Từ công thức này có thể thấy pH tỷ lệ nghịch với nồng độ H+, vì vậy lúc nồng độ H+ cao thì pH nhỏ và khi nồng độ H+ không quá cao thì pH lớn.
    Độ pH bình thường xuyên của máu động mạch là 7.4 trong lúc pH máu tĩnh mạch và dịch kẽ là 7.35 bằng lường carbon dioxid (CO2) sinh ra từ các mô vào hòa tan trong dung dịch tạo thành H2CO3. Vì bình thường xuyên độ pH máu động mạch là 7.4, một người được coi là bị nhiễm toan khi độ pH giảm xuống dưới mức 7.4 và coi là nhiễm kiềm lúc độ pH tăng trên 7.4. Giới hạn dưới của độ pH mà ở đó con người có thể tồn ở được khoảng vài giờ là 6.8 và giới hạn trên của độ pH là khoảng 8.0.
    pH nội bào thường thấp hơn so với pH huyết tương vì sự thảo luận chất trong tế bào sẽ tạo ra những acid độc nhất là acid H2CO3. Độ pH của dịch nội bào được ước tính khoảng 6.0-7.4. Thiếu O2 mô và máu lưu thông kém đến những mô có thể gây ra sự tích tụ acid và gây giảm xuống pH nội bào. Độ pH nước tiểu có thể dao động trong khoảng 4.5-8.0 tùy thuộc tình trang cân bằng acid-base của dịch ngoại bào. Như đã biết, thận đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nồng độ H+ nhờ công đoạn bài tiết acid hay base ở ống thận.
    [​IMG]
    Bảng. PH và nồng độ ion H+ tại các mô trong cơ thể
    Ví dụ điển hình của dịch trong cơ thể có tính acid là dịch vị dạ dày HCl (được tiết ra từ tế bào thành của dạ dày). Nồng độ H+ trong các tế bào thành gấp khoảng 4 triệu lần so với nồng độ ion H+ trong máu (pH = 0.8).
     

Chia sẻ trang này